Cách Niệm Phật
Chúng
ta có thể trì danh niệm Phật bằng:
1.
“Cao thanh niệm” nghĩa là niệm lớn tiếng. Cách này chúng ta có thể dùng mõ để
phụ lực, hoặc giữ trường canh mà lấn áp tiếng động bên ngoài và đánh tan sự
buồn ngủ của chúng ta.
2.
“Ðê thanh niệm” nghĩa là niệm nhỏ tiếng. Nếu niệm lớn tiếng nghe hơi mệt, thì
nên dịu lại để giữ tâm khỏi sự tán loạn, giải đãi.
3.
“Kim cang niệm” nghĩa là niệm chỉ nhép môi, động lưỡi mà không có ra tiếng như
hai cách vừa nói trên.
4.
Mặc niệm” nghĩa là niệm âm thầm. Ðến đây môi, lưỡi không còn động, chỉ dùng trí
để nhớ câu niệm Phật mà thôi.
KINH
NGHIỆM.
Chúng
ta có thể dùng bốn cách trên đây mà thay đổi. Không nên cố chấp một pháp niệm
nào nhất định. Nghĩa là nếu niệm thầm (mặc niệm) có hơi năng đầu, buồn ngủ, thì
trở lại niệm lớn tiếng và tuần tự, hoặc đê thanh niệm, v.v…
Ngài
Luật Hàng Pháp sư dạy chúng ta có thể trong khi dùng bốn cách “Trì danh niệm
Phật”:
1.
Hoặc là niệm đủ sáu tiếng “Nam mô A Di Ðà Phật”.
2.
Hoặc chỉ niệm bốn tiếng “A Di Ðà Phật”.
3.
Hoặc cho câu niệm Phật theo hơi thở ra vào tùy theo sức mà niệm nhiều câu hay
ít câu, gọi là “Xuất nhập tức niệm”.
4.
Hoặc khi niệm Phật, luôn luôn trụ tâm nơi đỉnh đầu để tâm khỏi duyên cảnh khác
mà bị tán loạn.
Ngoài
ra, người niệm Phật phải chú trọng đến ý căn bản của mình, nghĩa là phải gom
thâu tư tưởng lại mà đặc biệt để ý đến bốn điểm cần thiết:
1.
Phải kiên thành nghĩa là cung kính, thành khẩn, kỵ sự khinh mạn, không tôn
kính.
2.
Phải thống thiết nghĩa là tỏ vẻ đau khổ, kỵ sự trống không, không thiết thực.
3.
Phải kiên chí nghĩa là ý chí vững vàng, kỵ sự gián đoạn, đứt khúc, không nối
tiếp nhau.
4.
Phải chuyên nhất bấy giờ là chỉ theo một chiều, kỵ sự xen tạp lộn xộn.
Ý
căn được kềm vào bốn điểm này thì các căn khác như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
khó duyên ngoại mà phát thức vọng động.
Muốn
cho được kết quả chắc chắn, trong khi niệm, hoặc lớn tiếng, nhỏ tiếng, chúng ta
còn phải luôn luôn kiểm điểm những việc như sau:
1.
Giữ miệng niệm cho rành rẽ.
2.
Kềm hai lỗ tai nghe cho rõ ràng.
3.
Giữ tiếng niệm cho trong trẻo, đều đều.
4.
Nhất là cái ý phải cẩn mật, kim chỉ cho thật khít khao mà dày dặn đừng để một
tà niệm nào xen vào.
Trong
Kinh Di Giáo, Ðức Phật dạy chúng ta khi niệm Phật phải chăm chỉ, chẩm bẩm như
mèo rình chuột, như viên tướng soái giữ cửa thành. Nếu được như thế, thì chúng
ta sẽ thành công “Niệm Phật Tam muội” vậy.
Cực
Lạc Thù Thắng
Dịch giả: Hòa Thượng Thích Hân Hiền
Dịch giả: Hòa Thượng Thích Hân Hiền
3 Cách Niệm Phật
Mặc
trì thì niệm Phật bằng ý, thường thường trong đời sống thì ý thức con người hay
bị dong rủi theo duyên, ngoại cảnh chi phối đủ điều, không bao giờ dừng nghỉ.
Lúc gặp chánh pháp, có đủ duyên lành gặp đúng pháp môn tu. Thời gian thực tập
chuyên tu tịnh nghiệp, tam nghiệp được phục chế, nghiệp lực không còn lừng lẫy,
lửa tham sân si cạn dần theo sự thuần thục công đức siêng tu. Lúc hành đạo, chư
liên hữu thực hiện ngồi bán già hay kiết già, kiết ấn tín (như hình ảnh Đức
Phật ngồi thiền và thành Đạo dưới gốc cây Tất Bát La) qua thời gian khởi động
ban đầu, hành giả bắt đầu dùng ý niệm Phật, tức niệm Phật bằng ý thức, không
niệm Phật ra tiếng, không niệm Phật nhép bằng miệng. Ý thức luôn tinh tiến công
phu niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật cho đến khi thuần thục, lần lần các căn
khác cũng nương theo ý mà thuần thục cho đến khi thân an, thần tịnh, thân tâm
an lạc trong sâu lắng, liên hữu tiếp tục thực tập điều hoà ngày đêm nhị thời,
tam thời, tứ thời, lục thời, chắc chắn sẽ đạt đến đỉnh điểm định lực, tam muội.
Tuy nhiên cách nầy nếu liên hữu tu không khéo dễ bị hôn trầm.
Cao
thinh trì thì miệng kết hợp với ý niệm, tức là niệm bằng miệng, nhưng niệm danh
hiệu Nam Mô A Di Đà Phật lớn tiếng, tuỳ theo hoàn cảnh niệm thật lớn, niệm vừa
phải, niệm vừa đủ nghe để trấn áp các tiếng động bên ngoài, hạn chế cho nhĩ
thức bị động bởi những tiếng động bên ngoài. Chủ yếu niệm Phật cao thinh trì là
dùng miệng niệm Phật lớn tiếng đánh động nhĩ thức tỉnh thức phan duyên theo
tiếng niệm Phật, mà buông bỏ những tiếng động âm thinh bên ngoài; liên hữu chỉ
còn nghe tiếng niệm Phật cho đến khi thuần thục tịnh tâm, an lạc, định lực nảy
sanh mà thôi. Cách tu thường dễ bị tán loạn, nếu liên hữu niệm cẩu thả, dễ
duôi.
Kim
Cang Trì gần giống như cách niệm mặc trì, cao thinh trì, nhưng niệm không ra
tiếng, mà chỉ nhép miệng, hở môi thật dịu dàng, không mở miệng quá lớn, không
hé miệng quá nhỏ, làm cho ý bị động, không thể thực hiện hành pháp niệm Phật
được. Hành giả liên hữu nhép miệng một phần ba môi, đánh lưỡi thật nhẹ nhàng
niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, rất dễ thuần thục sâu vào định, chánh niệm
vững vàng không bị các ma ám ảnh, chư thiên lai hộ trì, phi nhơn không phá
hoại, pháp giới thật an tịnh. Cách tu nầy thuộc của hàng Tăng Ni và Cư Sĩ thực
hành thời điểm độc cư, nhập thất. Ở đây chỉ được minh triết, ở phần sau nói về
phương pháp, cách thức niệm Phật sẽ được hướng dẫn rõ ràng hơn.
Đại
Sư Châu Hoằng dạy:
*
Niệm Phật có “mặc trì”, “cao thinh trì”, “kim cang trì”. Nhưng niệm thầm (mặc
trì) thì dễ hôn trầm, niệm lớn tiếng (cao thinh trì) cảm thấy phí sức, duy dùng
pháp “kim cang trì” se sẽ động môi lưỡi mà niệm, là có thể bền lâu. Nhưng cũng
không nên chấp định, hoặc khi niệm theo lối “kim cang trì” thấy phí sức, thì
không ngại gì “mặc trì”, nếu hôn trầm, lại đổi dùng pháp “cao thinh”.
*
Tâm hôn loạn đã lâu, không thể một lúc mà an định được, cho nên người niệm Phật
nếu tâm không thanh tịnh đừng quá vội lo, chỉ cần khi niệm mỗi chữ mỗi câu đều
do nơi tâm phát ra, dụng công bền lâu, tự có hiệu quả.
*
Tạp niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc, niệm Phật chính dể trị tạp niệm, mà không
thấy hiệu quả, là do dụng công chưa được chơn thiết. Cho nên mỗi khi tạp niệm
nổi lên, phải chuyên lòng gia công niệm, mỗi chữ mỗi câu tinh nhứt không xao
lãng, thì tạp niệm dứt.
*
Trong lúc muôn niệm rối ren, chính là thời khắc dùng công phu, mỗi khi tán loạn
liền mau thâu nhiếp lại, cứ như thế mãi, lâu ngày công phu thuần thục, tự nhiên
vọng niệm không sanh. Vả lại, người biết được vọng niệm nhiều, là do nhờ niệm
Phật; lúc không niệm, vọng tâm như sóng nổi nước trào, không giây phút nào
ngừng nghỉ, khi ấy đâu có tự biết được ư?
*
Người học Phật đừng quá theo hình thức bên ngoài, chỉ huy tu hành chân thật.
Hàng Cư Sĩ tại gia không cần phải cạo tóc mặc đồ đà, tự có thể để tóc mặc áo
tràng mà niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Người ưa thích thanh vắng, không cần phải
đánh chuông đánh mỏ, tự có thể yên lặng mà niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Người sợ
công việc phiền phức, không cần kết bè lập hội, tự có thể đóng cửa mà niệm Nam
Mô A Di Đà Phật. Người biết chữ, không nhứt thiết phải vào Chùa mà nghe kinh,
tự có thể xem kinh theo lời dạy trong ấy mà niệm Phật. Trải qua ngàn dặm đi
hành hương ở các danh sơn, không bằng ngồi yên nơi nhà mà niệm danh hiệu Nam Mô
A Di Đà Phật. Cúng dường những vị sư không chơn chánh, không bằng hiếu thuận
cha mẹ và siêng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Giao du với nhiều bạn bè
kém đạo đức, không bằng kẻ dốt nát mà biết chuyên niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà
Phật. Đức hạnh thấp mà giọng nói đạo lý cao siêu, không bằng kẻ chất phát giữ
giới luật tinh nghiêm, hạn chế phan duyên niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.
Tánh háo kỳ, ưa cầu sự linh ứng, thần thông pháp tắc của ma quỷ, không bằng
chánh tín nhân quả mà chuyên niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.
Nói
tóm lại, người niệm Phật giữ tấm lòng ngay thẳng, chấm dứt làm các việc ác, gọi
là thiện nhơn. Người niệm Phật nhiếp tâm trừ tán loạn, diệt vong niệm, dứt hoặc
nghiệp gọi là thánh nhơn.
*
Xin khuyên những người rất thanh nhàn, việc gia đình con cái đã lo xong, dưới
trên rỗi rảnh, nên đem hết tâm lực phát tâm tu hành dũng mãnh mà niệm Phật, mỗi
ngày tính từ số ngàn câu danh hiệu Phật đến muôn câu danh hiệu Nam Mô A Di Đà
Phật. Xin khuyên những người duyên đời bận buộc, ràng buộc muôn duyên quá
nhiều, nhọc nhằn vì việc công, bôn ba vì gia sự, tuy ít khi rỗi rảnh nhưng mỗi
buổi sớm mai cố gắng nhín chút thì giờ, niệm Phật chừng mươi hơi, ngoài ra lúc
nào rảnh, niệm xen vài trăm câu.
*
Lúc ta còn đi tha phương học Đạo, nghe Biện Dung Thiền Sư tông phong rất thạnh,
bèn đến nơi cầu pháp, đôi ba phen quỳ lạy thưa hỏi, Thiền Sư bảo: “Ngươi nên
giữ bổn phận, không nên tham cầu danh lợi, đừng chạy theo duyên ngoài, chỉ cần
phân minh lý nhân quả, một lòng chuyên niệm Phật mà thôi”. Ta liền lãnh giáo
lui ra. Bấy giờ các bạn đồng hành đều cả cười, bảo: “Từ ngàn dặm đến đây, chỉ
mong được nghe những lời cao siêu thâm diệu, té ra chỉ lãnh mấy câu không đáng
nữa đồng tiền! Giá mấy câu ấy, ai mà không nói được”. Ta đáp: “Đó mới là chỗ
tốt của Thiền Sư. Chúng ta khát ngưỡng mong mến từ ngàn dặm đến đây, Ngài không
nói lời chi huyền diệu để lấn lướt kẻ dưới, chỉ chất phát thật thà, đem chỗ
công phu thiết cận, song tinh yếu, chính mình đã thể nhận, mà khuyên bảo dặn
dò”. Điều nầy ta còn tuân giữ mấy lời ấy, không dám lãng quên.
Đại Sư dạy tiếp: “Giữ bổn phận không tham danh lợi, không theo duyên ngoài, rõ lý nhân quả, chuyên niệm Phật” lời nầy xem như cạn cợt tầm thường, song rất cao siêu, mầu nhiệm, tuy là giản dị, song bao quát kinh nghĩa, gom thành chỗ tinh yếu của một đời người tu. Giữ đúng theo đây xét kỷ lại, đã có mấy ai làm được? Cho nên kẻ nông cạn tất xem thường lời nầy; người ưa nói lý huyền, xem mình là bậc cao siêu vô ngại, quyết không thể nào làm đúng như những lời dạy này; nên chẳng phải bậc đã từng kinh nghiệm như Ngài Biện Dung Thiền Sư, không có đủ trình độ thốt ra lời nầy; và nếu chẳng phải bậc chân tu thật đức, thạc học, thiện tri thức học đạo giải thoát, cũng không thể lãnh thọ được lời nầy.
Đại Sư dạy tiếp: “Giữ bổn phận không tham danh lợi, không theo duyên ngoài, rõ lý nhân quả, chuyên niệm Phật” lời nầy xem như cạn cợt tầm thường, song rất cao siêu, mầu nhiệm, tuy là giản dị, song bao quát kinh nghĩa, gom thành chỗ tinh yếu của một đời người tu. Giữ đúng theo đây xét kỷ lại, đã có mấy ai làm được? Cho nên kẻ nông cạn tất xem thường lời nầy; người ưa nói lý huyền, xem mình là bậc cao siêu vô ngại, quyết không thể nào làm đúng như những lời dạy này; nên chẳng phải bậc đã từng kinh nghiệm như Ngài Biện Dung Thiền Sư, không có đủ trình độ thốt ra lời nầy; và nếu chẳng phải bậc chân tu thật đức, thạc học, thiện tri thức học đạo giải thoát, cũng không thể lãnh thọ được lời nầy.
Lời
dạy của đại sư Vân Thê Châu Hoằng
Trích: Sách Tịnh Độ Giảng Lược
Tác giả: Hòa Thượng Thích Giác Quang
Trích: Sách Tịnh Độ Giảng Lược
Tác giả: Hòa Thượng Thích Giác Quang
Các Loại Tịnh Độ Sai
Khác
Tịnh
độ hay uế độ tuy hình như thuộc ngoại cảnh nhưng sự thật thì đều do nhứt tâm
biến hiện. Chư Phật khi lấy diệu dụng của tịnh thức biến hiện ra Tịnh độ, vì
tác dụng có sai khác nên danh nghĩa Tịnh độ cũng tùy đó mà có sai khác.
Căn
cứ vào Tây phương Hiệp luận đã chép thì Tịnh độ có 10 loại không đồng nhau.
1)
TỶ LÔ GIÁ NA TỊNH ĐỘ
Tỷ
lô giá na tức là pháp thân của Chư Phật, Hán dịch là biến nhứt thế xứ (nghĩa là
cùng khắp nơi chốn). Cõi Tịnh độ này bất luận ở đâu cũng hóa hiện được, vì ở
đâu cũng có vô lượng hóa Phật. Đây cũng tức là báo độ của chư Phật.
2)
DUY TÂM TỊNH ĐỘ
Loại
Tịnh độ này tùy tâm biến hiện. Tâm uế thì quốc độ uế, tâm tịnh thì quốc độ
tịnh. Như trong kinh Duy Ma Cật dạy: “Trực tâm là Tịnh độ của Bồ tát; khi Bồ
tát thành Phật những chúng sanh trung trực đều vãng sanh về cõi ấy … Nếu Bồ tát
muốn được quả Tịnh độ phải tịnh lòng mình; tùy lòng mình tịnh thì cõi Phật
tịnh.” Đó là nghĩa của Duy tâm Tịnh độ.
3)
HẰNG CHƠN TỊNH ĐỘ
Hằng
chơn Tịnh độ tức như cảnh giới mà Đức Phật đã thị hiện trên hội Linh Sơn để
hướng dẫn hàng tam thừa quyền giáo Bồ tát, cho họ biết rằng ở cõi này tuy ô uế
nhưng cũng chính đó là cõi thanh tịnh vậy. Trong kinh chép rằng trên hội Linh
Sơn, các đệ tử hỏi Phật vì sao cảnh giới của Ngài hiện đương sống lúc bấy giờ
(núi Linh Thứu) lại cũng ô uế bất tịnh, thế thì nhơn địa tu hành của Ngài cũng
bất tịnh chăng? Phật liền lấy ngón chân ấn xuống đất, cảnh uế độ liền biến
thành trang nghiêm thanh tịnh.
Như
vậy cảnh hằng chơn Tịnh độ này là một cảnh hằng thường, nhưng biến hiện tùy
theo nghiệp nhơn của chúng sanh mà thấy có tịnh hay có uế.
4)
BIẾN HIỆN TỊNH ĐỘ
Biến
hiện Tịnh độ là do sức gia cảm của Phật mà có biến hiện. Như trong kinh bát nhã
nói đức Phật dùng thần lực biến thế giới này thành một thế giới như ngọc lưu
ly, có đủ bảy báu trang nghiêm và hoa sen rải khắp mặt đất. Cảnh giới ấy tức là
cảnh giới mà Đức Phật tạm thời biến hiện để cho chúng ta thấy rằng bản lai diện
mục của uế độ tức cũng chính là Tịnh độ vậy.
5)
KÝ BÁO TỊNH ĐỘ
Luận
Khởi Tín chép rằng: “Khi Bồ tát hoàn mãn công đức, sanh lên cung trời Sắc Cứu
Kính thì hiện ra thân tướng rất cao lớn. Trước khi bổ xứ kế vị thành Phật, Bồ
tát tạm ký thác báo thân ở đó một thời gian, nên gọi cung trời ấy là ký báo
Tịnh độ”, như cung trời Đâu Suất của đức Bồ tát Di Lặc hiện an trú trước khi sẽ
bổ xứ thành Phật.
6)
PHÂN THÂN TỊNH ĐỘ
Theo
kinh Niết Bàn, Phật bảo Ương Quật rằng: “Ngươi không biết rằng ta đã an trú
trong thực tại vô sanh. Nếu ngươi không tin, cứ qua Đông phương hỏi Đức Phật ở
đấy tên gì thì sẽ nghe Ngài tự giới thiệu: “Thích Ca là ta”!
Không
có gì đáng ngạc nhiên cả, vì nên biết rằng pháp thân của Phật đã an trú trong
thực tại vô sanh thì đức Phật ở Đông phương hay ở cùng khắp mười phương đều
cũng chỉ là phân thân của một đức Phật mà thôi vậy.
7)
Y THA TỊNH ĐỘ
Kinh
Phạm Võng: “Nay ta là Lô Xá Na ngồi trên đài sen gồm có ngàn hoa. Trên ngàn hoa
ấy lại thị hiện ngàn thân Thích Ca. Mỗi hoa lại biến thành trăm ức cõi Phật và
trong mỗi cõi lại hiện ra một thích Ca.”
Các
cõi được thị hiện như vậy gọi là báo thân tha thọ dụng (hiện báo thân cho người
khác thọ dụng) mà chỉ có Đăng địa Bồ tát mới trông thấy. (Đăng địa nghĩa là đã
lên từ nhứt địa tới thập địa).
8
) THẬP PHƯƠNG TỊNH ĐỘ
Thập
phương Tịnh độ là các cõi Tịnh độ trong mười phương. Như ở Đông phương thì có
các cõi Tịnh độ của đức Phật A súc, đức Phật Dược sư, đức Phật Tu Di Đăng Vương
… Nam phương có cõi Tịnh độ của đức Phật Nhật Nguyệt Đáng …, Thượng phương có
cõi Tịnh độ của đức Phật Hương tích v.v…
Mỗi
đức Phật đều an trú tại một cõi Tịnh độ thanh tịnh trang nghiêm không còn có
trần cấu.
9)
NHỨT TÂM TỊNH ĐỘ
Loại
Tịnh độ này nương nơi tâm mà biến hiện và tùy theo công năng tu chứng cao thấp
nên có phân ra bốn bực không đồng.
a)
Phàm Thánh đồng cư Tịnh độ
Đây
là quốc độ của hàng nhị thừa và nhơn thiên. Nhị thừa là Thánh; nhơn thiên là
phàm. Thánh phàm cùng ở chung nên gọi là Phàm Thánh đồng cư, lại vì tính chất
tịnh uế không đồng mà có chia thành hai thứ. Như cõi Ta bà là đồng cư uế độ;
cõi Cực lực là đồng cư Tịnh độ.
b)
Phương tiện hữu dư Tịnh độ
Đây
là cảnh giới an trú của hàng tiểu thừa. Hàng tiểu thừa nhờ đoạn được phiền não
của kiến hoặc và tư hoặc nên thoát ra khỏi tam giới. Kiến hoặc là sự mê lầm về
kiến thức, tư hoặc là sự mê lầm về tư tưởng. Trên con đường tu chứng, đoạn trừ
kiến hoặc và tư hoặc chỉ là mới đạt được phương tiện chứ chưa đạt được cứu
cánh. Còn cần phải tiến lên nữa và phải đoạn hai món mê lầm là trần sa hoặc (mê
lầm nhỏ như cát bụi) và vô minh hoặc (mê lầm căn bản) mới thật gọi là chứng
quả. Trần sa hoặc là sự mê lầm nhỏ nhặt như vi trần; vô minh hoặc là sự mê lầm
cội gốc do căn bản vô minh gây nên. Đoạn kiến hoặc và tư hoặc chỉ là mới đạt
được phương tiện, nên hành giả còn phải tu tiến thêm nữa; vì vậy gọi là phương
tiện hữu dư. Hữu dư nghĩa là còn sót, chưa tốt ráo.
c)
Thật báo vô chướng ngại Tịnh độ
Đây
là cảnh giới an trú của các vị đại Bồ tát. Các vị đại Bồ tát nương theo phương
pháp chơn thật mà tu hành cảm được quả báo thù thắng chơn thật; sắc giới (vật
chất) cũng như tâm giới (tinh thần) không còn gây chướng ngại đối với Bồ tát
nên gọi là thật báo vô chướng ngại. Cảnh giới của các vị Bồ tát đã tu chứng.
d)
Thường tịch quang Tịnh độ
Đây
cũng tức là cảnh giới đại Niết bàn của Chư Phật an trú. Thể tánh của cảnh giới
này thường vắng lặng mà vẫn thường quang minh vì do trí huệ của Phật hằng
thường tỏa chiếu cùng khắp. Vì thế nên gọi là thường tịch quang độ. Thường tịch
nghĩa là thường vắng lặng, thường quang nghĩa là thường soi sáng.
10)
BẤT KHẢ TƯ NGHÌ TỊNH ĐỘ
Bất
khả tư nghì Tịnh độ tức là cảnh giới Cực lạc của đức Phật A Di Đà để thâu
nhiếp, tiếp nhận chúng sanh trong mười phương. Sức thâu nhiếp ấy không thể nghĩ
bàn, vì ngoài sức tư tưởng và luận bàn của chúng sanh.
Đây
là chỉ đứng về nghĩa thù thắng của cảnh giới Cực lạc mà nói, chứ sự thật thì
tất cả các cõi Tịnh độ trong mười phương đều có công năng thâu nhiếp tiếp nhận
và đều có tác dụng bất khả tư nghì như thế.
Tóm
lại, 10 cảnh Tịnh độ trên này tuy có sai khác về danh từ, nhưng cùng đồng nhất
tâm biến hiện, vì cõi Tịnh độ nào cũng đều lấy sự thâu tiếp nhận chúng sanh bất
khả tư nghì làm căn bản, Cho nên, nói một cõi tức gồm đủ cả bốn cõi: đồng cư,
phương tiện, thật báo và tịch quang. Sự lập danh sai khác chẳng qua là tùy theo
mỗi phương tiện mà thôi.
Ở
đây chỉ riêng chú trọng về cõi Tịnh độ Cực lạc của đức Phật A Di Đà là vì cõi
ấy rất có quan hệ mật thiết với chúng ta, như Đức Thích Ca đã dạy.
Vì
vậy cõi Cực lạc Tịnh độ là mục tiêu chính để cho chúng ta tập trung tất cả lực
lượng tư tưởng vào đó. Nếu thật chứng được một cõi Tịnh độ ấy thì bao nhiêu cõi
Tịnh độ khác cũng đều chứng được.
Trích
trong Tâm Như – Trí thủ
Ma Chướng Khi Niệm Phật
Tu
pháp môn niệm Phật có bốn cách như sau: một là trì danh niệm Phật, hai là quán
tượng niệm Phật, ba là quán tưởng niệm Phật, bốn là thật tướng niệm Phật. Chỉ
sợ người không đủ đức hạnh, không đủ đạo tâm, khi công phu bị cảnh giới ma làm
cho mê hoặc. Như hồi tôi gặp một trường hợp tại Hồng Kông, có một vị xuất gia ở
chùa Từ Hưng, tu phép “Ban chu tam muội”. “Ban chu tam muội” là thường hành tam
muội, ông ấy ở trong phòng như thế đến chín mươi ngày, chẳng ngồi, chẳng nằm
chỉ đứng và đi mà thôi. Một hôm, tôi nghe ông ta niệm càng lúc tiếng càng lớn
rồi nghe tiếng chân chạy gấp gáp ở trong phòng với tiếng la hét là Phật A Di Đà
đã đến rồi, Phật đến rồi… Tôi thấy hơi kỳ lạ, ghé mắt nhìn vào phòng xem thử,
biết không ổn, tôi bèn hét lên một tiếng thì ông mới tỉnh ngộ và ở lại trạng
thái bình thường. Chuyện gì xảy ra với ông vậy? Là khi đang công phu ông ta
thấy đức Phật A Di Đà đến quỳ trước mặt ông ta. Thấy vậy, ông ta tưởng Phật A
Di Đà đến đón mình nên liền chạy đến quỳ trước Phật, nhưng thật tế Phật sao lại
quỳ trước mặt ông ta chứ? Thực ra, đó chỉ là một con trâu nước biến ra Phật A
Di Đà để đến dắt ông ta đi mà thôi. Mà chính vị Tỳ kheo này đời trước là một
con trâu, có công cày ruộng ở chùa nên khi chết mới đầu thai lại làm thân người
xuất gia tu đạo. Nhưng tánh trâu chưa hết tập khí cũ vẫn còn, cang cường khó
điều phục. Do ông ta tu pháp Ban chu tam muội có thể dứt trừ tập khí xấu ác đó
đi. Tuy vậy, đạo đức chưa đủ, định lực chưa kiên cố nên ông bị lạc vào cảnh
giới ma.
Trích
từ tập sách “Quê Hương Cực Lạc”
của Hòa Thượng Tuyên Hóa
của Hòa Thượng Tuyên Hóa
0 nhận xét:
Sẻ Chia Yêu Thương